Bài viết bởi Chris Niccolls @ PetaPixel
Chiếc Sony A7C đầu tiên không khác một máy ảnh cấp thấp là mấy. Tôi thực sự thích phong cách tối giản; một sự khác biệt mạnh mẽ so với kiểu dáng hình hộp DSLR của các máy ảnh Alpha khác, nó dễ điều hướng nhưng lại mắc phải điều mà nhiều máy ảnh cấp thấp khác mắc phải: thiếu các bánh xe điều khiển thủ công và kính ngắm tích hợp giá hời. Nhưng bây giờ ta đã có một bản nâng cấp. Hay đúng hơn là các bản nâng cấp.
Sony A7C II có giá bán $2,200 và cảm biến 33MP là người kế nhiệm trực tiếp của chiếc A7C đời đầu, trong khi Sony A7CR giá $3,000 trang bị cảm biến 61MP tương tự có trên A7R V. Hai máy ảnh này vẫn đang ở trạng thái tiền sản xuất (ở thời điểm trải nghiệm và viết bài) nên chúng tôi chỉ có thể tiếp cận được vài thứ, nhưng dù sao chúng tôi chắc chắn cũng sẽ hoàn thiện chúng dần.
Tuy dự định là những máy ảnh có giá cả phải chăng hơn và đơn giản hơn nhưng có thể thấy Sony đã nỗ lực nâng cao độ tinh vi lên một chút. A7C II rõ ràng mang nhiều nét DNA của A7 IV, còn A7CR thì tương tự A7R V, nhưng đây chỉ đơn giản là những phiên bản “em bé” của các chiếc máy ảnh đó hay chúng còn có nhiều hơn thế? Hãy bắt đầu với những điểm giống nhau giữa hai máy ảnh.
Nội dung
Sony A7C II và A7CR: Nhiều điểm chung
Cả hai máy ảnh A7C mới đều nhận được một số nâng cấp lớn mà theo một cách nào đó thậm chí còn nâng chúng lên trên các máy ảnh cao cấp hơn. Thay đổi lớn đầu tiên là bộ xử lý Bionz XR mới giúp tăng tốc hoạt động tổng thể của máy ảnh và mở ra các khả năng chụp ảnh và quay video mới. Kết hợp với đó là các thuật toán lấy nét tự động mới nhất của Sony, cho hiệu suất lấy nét và các chế độ phát hiện chủ thể tương đương với những gì tốt nhất mà Sony cung cấp.
Có những cải tiến đáng kể về xử lý các máy mới so với A7C ban đầu. Đầu tiên là báng cầm lớn hơn và thoải mái hơn khi cầm, đây là một lợi ích quý giá đối với một thân máy rất nhỏ gọn. Nếu tay cầm đó vẫn còn quá nhỏ, Sony sẽ cung cấp một tay cầm mở rộng có thể tháo rời mới, cung cấp một vị trí cho hai ngón tay của bạn cầm nắm một cách an toàn trong khi vẫn cho phép tiếp cận ngăn chứa pin. Báng cầm mới này được kèm sẵn với A7CR, nhưng là một tiện ích bổ sung mua lẻ đối với A7C II.
Nặng chỉ 513g, hai máy ảnh đều lý tưởng để mang theo khi đi du lịch và chiếm ít không gian bên trong túi máy ảnh. Cho đến nay cải tiến yêu thích của tôi đối với xử lý là việc bổ sung nút xoay điều khiển phía trước. Trước đây người dùng phải dùng ngón tay cái để điều khiển hai bánh xe, một quy trình chậm chạp và không hiệu quả.
Việc bổ sung nút xoay điều khiển phía trước tạo ra sự khác biệt lớn khi điều chỉnh điều khiển thủ công một cách nhanh chóng. Hiện tại trong máy ảnh đã có khe cắm thẻ SD UHS-II nhanh hơn, nhưng vẫn chỉ có một khe cắm. Các máy mới thậm chí có mức độ kháng thời tiết tương tự như A7 IV.
Hai máy ảnh có EVF 2.36 triệu điểm, dù có độ phân giải tương tự như chiếc đời đầu nhưng có hệ số phóng đại rõ ràng hơn nhiều giúp cải thiện đáng kể trải nghiệm xem. Ở mặt sau của các máy ảnh mới là màn hình LCD cảm ứng khá khiêm tốn với hơn một triệu điểm, nhưng ít nhất nó là loại đa góc.
Một thay đổi thú vị khác là việc triển khai cửa trập rèm điện tử đầu tiên dành riêng cho cả hai máy ảnh. Điều này có nghĩa là không có cơ chế màn trập cơ học hoàn toàn mặc dù có chế độ màn trập điện tử hoàn toàn nếu muốn. Việc chỉ có màn trập EFC này giúp máy ảnh rất ổn định khi chụp ở tốc độ màn trập chậm do không có hiện tượng giật do màn trập cơ truyền thống gây ra. Mặt khác, nó lại khiến hiệu ứng bokeh trông không đẹp hoàn chỉnh. Thật vô nghĩa; nhưng việc này chỉ xảy ra khi chụp với ống kính có khẩu độ tối đa rất sáng – được cho là một trường hợp rất hiếm xảy ra.
Cuối cùng, cả hai máy ảnh hiện đều có hệ thống IBIS cải tiến hứa hẹn tăng thêm bảy điểm dừng ổn định. Đây là một bản nâng cấp đáng kể không chỉ so với A7C ban đầu mà còn hơn cả A7 IV. Không thể cạnh tranh hoàn toàn với máy ảnh A7R V tiên tiến hơn, nhưng dù sao đi nữa, tính năng ổn định tích hợp mới sẽ rất hữu ích.
A7CR so sánh với A7R V
Nếu xem xét cụ thể A7CR, chiếc máy ảnh này mang đến điều gì? Ta có cảm biến và khả năng lấy nét tự động giống hệt như A7R V, đưa hai tính năng nổi bật chính của A7R V gói vào một thiết bị nhỏ gọn hơn nhiều và giá bán cũng dễ thở hơn.
A7R V có bộ IBIS hiệu quả hơn một chút và có thể chụp 10 khung hình mỗi giây thay vì 8 khung hình mỗi giây của A7CR. Phải thừa nhận rằng đây là những khác biệt khá nhỏ. Sony A7R V có EVF phức tạp hơn nhiều và hai khe cắm thẻ nhớ. Tôi có thể thấy việc thiếu những tính năng này sẽ là một trở ngại lớn đối với một số nhiếp ảnh gia chuyên môn đang xem xét A7CR.
Nói đến hiệu suất video, A7CR có các khả năng tương tự như A7R V, bao gồm một cảm biến tuyệt vời cho ảnh tĩnh nhưng không quá nhiều cho video. Cảm biến 61MP này đọc quá chậm trên cả hai máy ảnh, vì vậy chế độ 4K 24p và 30p được xử lý pixel binning để có thể cung cấp video quay trên toàn chiều rộng cảm biến. Ở 4K 60p, khung hình bị cắt và xử lý pixel binning lại gây ảnh hưởng đến chất lượng video tổng thể.
Sự khác biệt lớn nhất là việc thiếu chế độ quay 8K trên A7CR, tuy nhiên, do có màn trập lăn tràn lan trên cả hai máy ảnh nên đây không phải là một mất mát quá lớn. Dù vậy, việc chuyển sang chế độ crop APS-C sẽ cho phép cảnh quay được lấy mẫu dư và đẩy chất lượng hình ảnh lên, đôi lại, sau đó bạn phải chịu hệ số crop 1,5 lần cho tất cả ống kính và không thể tránh khỏi các vấn đề về màn trập lăn.
Nói tóm lại, ta sẽ có khả năng quay video tương tự giữa A7CR và A7R V cũng như những rắc rối chẳng khác gì nhau.
A7C II so sánh với A7 IV
Theo tôi, Sony A7C II là chiếc đẹp nhất trong nhóm. Tôi yêu tấm trên bằng kim loại và kiểu dáng của dòng A7C luôn hấp dẫn đối với tôi. Tôi thích vẻ ngoài của nó hơn chiếc A7 IV tiện dụng hơn, nhưng những gì bên trong mới là điều quan trọng.
Hai máy ảnh có cùng cảm biến 33MP, đây là sự cân bằng tuyệt vời giữa kích thước tệp và chất lượng. Chúng cũng đạt tốc độ chụp liên tục tối đa 10 khung hình/giây, vì vậy bạn có thể ghi được các hoạt động hành động và thể thao. Tuy nhiên, đây là một trường hợp thú vị khi A7C II thực sự tốt hơn về nhiều mặt quan trọng khi so sánh với A7IV.
A7C II có hệ thống lấy nét tự động mới của Sony, từ đó đặt nó ngang hàng với chiếc A7R V cao cấp hơn nhiều. A7C II cũng có hệ thống IBIS ổn định hơn A7 IV. Tất nhiên, A7 IV vẫn có màn hình tốt hơn, báng cầm lớn hơn và bộ điều khiển tinh vi hơn. Chắc chắn có những lập luận để đi theo cả hai hướng, nhưng A7C II đã vượt qua “người anh lớn” của mình ở một số khía cạnh quan trọng.
Về hiệu suất video, hai máy về cơ bản là ngang bằng. Màn trập lăn vẫn là một vấn đề trên chúng do cảm biến đọc hơi chậm. Cả hai đều yêu cầu crop nhiều khi quay phim 4K 60p. Tuy nhiên, A7C II có chút lợi thế hơn khi nói đến hiệu suất lấy nét tự động khi quay video. Một lần nữa, nhờ có các thuật toán AF tiên tiến hơn, A7C II sẽ hoạt động tốt hơn chiếc A7 IV đắt tiền hơn.
Sony A7C II và A7CR: Không còn nằm ở cấp thấp
Như vậy, rõ ràng là hệ thống phân cấp của Sony đã bị xáo trộn một chút. Vấn đề không phải là mua A7CR hay A7C II đơn giản vì chúng là những máy ảnh cấp thấp, rẻ hơn. Về nhiều mặt, chúng ngang bằng — hoặc đã vượt qua — các mẫu đắt tiền hơn và mặc dù có cấu trúc điều khiển và màn hình cơ bản hơn nhưng cũng mang đến thiết kế nhỏ gọn hơn nhiều.
Tôi có thể thấy được nhiều nhiếp ảnh gia hoàn toàn bị chinh phục bởi thân máy dòng A7C mới bất kể mức giá rẻ hơn. Tôi gần như coi hai chiếc máy ảnh mới này là những lựa chọn thay thế hấp dẫn cho A7R V và A7 IV, thay vì những lựa chọn cấp thấp hơn cho một ngân sách tiết kiệm. Chúng đều có một số khả năng nghiêm túc đáng để khám phá thêm.
Trong hệ sinh thái Sony, lựa chọn thay thế thực sự duy nhất chính là những chiếc máy ảnh mà họ vay mượn rất nhiều. Nếu bạn muốn bộ điều khiển tiên tiến hơn, hai khe cắm thẻ nhớ và màn hình chất lượng tốt hơn, A7R V và A7 IV vẫn là những chiếc máy ảnh tuyệt vời để bạn lựa chọn. Nhưng nếu là về chất lượng hình ảnh, hiệu suất video hay lấy nét tự động, A7CR và A7C II thực sự có thể đáp ứng ngang bằng.
Theo Chris Niccolls @ PetaPixel