Với anh em nào mới chuyển từ Win sang Mac chắc cũng sẽ có những bỡ ngỡ bước đầu. Ngoài chuyện làm quen với sự trái ngược của dãy nút đóng cửa sổ, phím tắt Control đổi thành Command, anh em cũng phải nghiên cứu xem phần mềm nào tương ứng với cái nào bên Win để khi cần sử dụng có thể chạy lên cho nhanh. Xin giới thiệu với anh em những phần mềm như vậy, hi vọng anh em sẽ làm quen nhanh hơn và vui vẻ hơn với chiếc máy Mac của mình nhé.
File Explorer -> Finder
Một trong những phần mềm mà anh em chúng ta thường xài nhất là trình quản lý file của Windows, và bên Mac nó gọi là Finder. Mặc định icon Finder luôn xuất hiện trên thanh dock nên bạn có thể gọi nó lên bất kì lúc nào bạn muốn, giống như việc icon Explorer được gắn sẵn trên taskbar của Windows vậy.
Khi đã vào Finder rồi thì bạn sẽ thấy là không có khái niệm My Computer / Computer. Thay vào đó, macOS sẽ hiển thị tên máy của bạn, click vô sẽ thấy những ổ đĩa đang có trên máy. Ngoài ra, mặc định macOS sẽ dẫn bạn vào một “home folder” của bạn (nếu máy có 2-3 người dùng thì mỗi người có home folder riêng), trong đó sẽ bao gồm thư mục Desktop, Document, Music, Video… Cái này giống như thư mục “User Folder” bên Windows.
Và khu vực cài phần mềm bên Win là C:\Program Files thì qua Mac sẽ nằm ở thư mục Macintosh HD > Applications.
Sơ sơ nhiêu đó là đủ chơi rồi.
Windows Mail / Outlook Express -> Mail
Trình duyệt email mặc định của Windows khi qua bên macOS sẽ chỉ còn đơn giản là Mail. Nó hỗ trợ push email từ Google, Yahoo, Outlook.com và gần như mọi hộp thư nổi tiếng trên thế giới. Ngay cả khi bạn dùng Google Apps của công ty làm mail thì cũng có thể đăng nhập rất dễ dàng. Nếu email của công ty sử dụng Exchange hay có một server riêng thì bạn vẫn có thể nhanh chóng cấu hình IMAP hoặc POP tùy theo yêu cầu. Ứng dụng Mail này rất mạnh nên bạn có thể dùng nó thay thế cho cả những ứng dụng bên thứ ba đấy.
Task Manager -> Activity Monitor
Chỗ bạn thường hay dùng để xem có tiến trình nào chạy quá nhiều RAM hay CPU hay không bên macOS gọi là Activity Monitor. Bạn có thể nhấn Command + Space và gõ chữ “Activity Monitor” để tìm nó cho nhanh, còn không thì vào Applications > Utilies > Activity Monitor. Trong phần mềm này bạn cũng có thể xem mức độ tiêu thụ CPU và RAM và mạng của hệ thống, có app nào đang chạy bất thường hay không, tắt những app đang hao tài nguyên hoặc có vấn đề.
Task Manager > Force Quit
Với các ứng dụng bên Win bị đứng, chúng ta thường nhấn Control + Alt + Delete để chạy Task Manager lên và kill những app này. Còn với macOS, bạn sẽ vào > Force Quit > lựa phần mềm đang lỗi > nhấn Quit để buộc app đó đóng lại.
Command Prompt -> Terminal
Cửa sổ dòng lệnh của bạn giờ chuyển thành Terminal, và các lệnh sẽ theo hệ Linux nhé, không còn như bên Win nữa đâu.
Notepad, WordPad -> TextEdit
TextEdit gần giống với WordPad hơn là Notepad vì nó cho phép bạn định dạng chữ nghĩa và lưu file dưới định dạng RTF (Rich Text Format). Bạn cũng có thể tạo ra các file dạng văn bản thô (.txt) bằng TextEdit cũng khá ổn.
Internet Explorer, Edge -> Safari
Với mình Safari hay hơn IE hay Edge vì chạy vô cùng nhẹ nhàng, không bị lỗi gì về giao diện hay bố cục trang web, lại còn sync được dữ liệu với iPhone, iPad của mình. Safari còn được tối ưu cho Mac nên khi chạy ít hao điện và tài nguyên hơn. Tất nhiên lúc nào mình cũng thủ sẵn Chrome trong máy để lỡ có việc gì cần thì xài, với một số công cụ lập trình của mình chỉ hỗ trợ Chrome nên cài song song với Safari cho chắc.
Windows Movie Maker -> iMovie
iMovie là app làm phim của Apple và cũng được miễn phí nếu bạn mua Mac mới, tải từ App Store về. Ứng dụng này rất đơn giản và dễ dùng, render phim nhanh, hỗ trợ nhiều hiệu ứng, chèn chữ và hình ảnh. Mình thường hay dùng nó để biên tập video trên tay này nọ cho anh em xem. Cách quản lý theo từng project và cách nhập phim đơn giản từ điện thoại / máy quay / máy chụp hình cũng là những điểm mình thích ở iMovie.
Windows Media Player -> iTunes
iTunes là trình chơi nhạc mặc định củ macOS. Có thể mới chuyển từ Windows sang bạn sẽ thấy khó chịu vì iTunes không cho phép quản lý theo folder, thay vào đó nó quản lý theo metadata như tên ca sĩ, album, tên bài hát… nhúng trong chính các file nhạc. Tự iTunes sẽ sắp xếp lại chúng vào các folder cho gọn gàng theo cấu trúc Tên ca sĩ / ban nhạc > Tên album. Bạn cũng có thể chỉnh lại để iTunes không tự sắp xếp và để yên file trong folder cũ của bạn tùy ý muốn. Sau khi quen với sự gọn gàng của cách tổ chức này, bạn sẽ cảm thấy rất thích vì dễ tìm và folder cũng trở nên khoa học hơn.
Office -> iWork hoặc Microsoft Office
Có hai lựa chọn cho bạn về ứng dụng văn phòng khi bạn chuyển sang dùng máy Mac: iWork của Apple, hoặc Office của chính Microsoft. Mình tất nhiên chọn giải pháp thứ 2 vì hàng chính chủ lúc nào xài cũng sướng hơn, khả năng tương thích với file cũng tuyệt vời. Bộ iWork của Apple tuy không nhiều chức năng nâng cao như bộ MS Office nhưng bù lại có sẵn nhiều template và có thể cho ra các file đẹp hơn. iWork miễn phí nếu bạn mua Mac mới, MS Office thì phải mua Office 365 mới sử dụng được.
Anh em có câu hỏi nào thêm thì hãy comment vô đây nhé. Mình và các anh em đang xài Mac sẽ cố gắng giải đáp giúp anh em
Macbook tại hệ thống zShop
– Macbook mới tại zShop bảo hành tới 24 tháng
– Macbook cũ tại zShop được dùng thử 15 ngày – Bảo hành từ 6 đến 12 tháng
– Macbook cũ – mới bán trả góp lãi suất 0%
(Theo Tinh Tế)